Saturday, November 26, 2005

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG

TRẦN XUÂN AN

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG
thơ

NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1993



không có gì tan mất đâu
thấy trong gỗ mục nguyên màu chồi tươi
bàn tay in dấu vào đời
cho nghìn xưa sống với người nghìn sau


(Trần Xuân An,
“Cảm nhận bên dòng sông”
“Nắng và mưa”)


Sự an ủi dịu dàng
của cái đẹp


Nhà thơ chỉ có tạo vật làm kiểu mẫu và chỉ có sự thật làm kẻ dẫn đường. Nhưng chỉ với những gì của riêng mình mới có thể sáng tạo nên nhưng câu thơ có bản sắc và tìm ra con đường của chính mình.

Trong một chừng mực nào đó, có thể nói những sản phẩm tinh thần nếu thiếu những điều kiện cần thiết của Cái Đẹp khả giác thì không thể trở thành những tác phẩm nghệ thuật. Và như thế, nhà thơ chính là kẻ biết kết hợp những hình thể có thể trông thấy hoặc không trông thấy – những hình thể nẩy sinh từ những suy niệm – vì đó là một sự kết nối phức tạp, cần nhiều kĩ năng. Khi đã hợp điệu được những đường nét, màu sắc, âm thanh cùng những sức mạnh của tinh thần, suy tưởng và sự phóng tứ thực sự thì chắc chắn sẽ mãn nguyện ở thành quả cuối cùng. Chính việc nắm bắt được, dù trong những thời gian bất chợt và những không gian không ngờ, để tạo nên những mối liên hệ, bắt nguồn từ những tâm trạng, mà nhà thơ đã thu hẹp được tạo vật trong cái thế giới riêng của mình. Trong thơ, cũng như trong bất cứ nghệ thuật nào khác, sự liên hệ chính là sức mạnh hình thành tác phẩm. Chính sự liên hệ đó, trong những tình trạng u uất khôn tả, đã có khả năng khám phá ra những sức mạnh không ngờ của tiềm thức, nơi mà trí tuệ không thể dễ lọt vào. Và trong trường hợp đó, thời gian chẳng có nghĩa gì cả. Sự kết tinh có thể chỉ là cái phút giây của một tia chớp, loé lên, và sáng loà. Nhưng cũng có thể là quãng thời gian của một năm, hay mười năm. Có đáng chi điều ấy. Nhà thơ là người phải luôn kiên nhẫn đợi tia sáng mới. Tia sáng của sự kết tinh ấy sẽ tới, như mùa xuân thổi lại cơn gió làm xanh hơn màu lá. Nhưng nó chỉ tới với những ai biết đợi. Và tôi có cảm tưởng Trần Xuân An đã trầm tưởng để đợi chờ như vậy, trong sự kiên trì của đời sống nội tâm, và cả trong những cơn đau dữ dội của tâm hồn và thần trí anh.

Ở Trần Xuân An, đó là kết tinh hoang tưởng. Và giải mã hoang tưởng phi lí đem đến sự giải thoát (*).

Tôi quen biết Trần Xuân An đã trên hai mươi năm, đủ để hiểu những giông bão đã tới trong đời anh. Có một quãng thời gian khá dài (**) tưởng như Trần Xuân An đã đi tới chỗ đối mặt với hư vô. Những cơn sóng ngầm u uẩn của cuộc đời đã xô đẩy Trần Xuân An vào trong bóng tối cô độc. Nhưng chính sức mạnh của tâm hồn đã đưa Trần Xuân An trở về với cuộc sống. Và trong cuộc trôi giạt định mệnh đó, Trần Xuân An đã thực sự trở thành kẻ đi, về giữa ánh sáng và bóng tối, hay nói một cách khác, do những cơn trầm cảm của mình, anh đã khám phá ra những điều kì lạ, phi lí mà thực hơn cả sự thực, trong thế giới nội tâm, chính xác hơn là thế giới tiềm thức, mà một người bình thường hẳn là khó lòng đặt chân tới (***). Có thể nói, Trần Xuân An đã đắm chìm trong những ảo giác hoang đường ghê sợ. Nhưng có điều rất lạ là, sau đó, tâm hồn anh vẫn giữ được sự trong sáng. Chính nhờ vậy mà khi đọc thơ Trần Xuân An, chúng ta có thể tìm thấy vẻ êm dịu trong nỗi khổ đau của anh, và biết rằng anh đã thoát qua nỗi đau khổ ấy. Cũng chính nhờ vậy mà chúng ta sẽ lại sống trong nỗi vui mừng vì chúng ta đã cùng với anh tìm lại được niềm tin ở cuộc sống, thoát khỏi những nỗi sợ hãi và ám ảnh quằn quại đen tối của tâm trí, như được đón nhận ánh sáng hồi sinh của một mùa xuân mới.

Thơ Trần Xuân An, vì thế, giống như một kẻ thân thiết dắt tay ta đưa tới phương trời xa và các vực thẳm. Nhưng vẫn còn một cõi trở về, đó là Tình Yêu: ”Vọng về một cõi xa xăm, Loé hồng đốm thuốc trầm ngâm bóng người, Vọng về năm tháng xa vời, Rưng rưng mắt nhớ môi cười xa xôi”; dẫu có lúc anh đã muốn dứt bỏ tình yêu ấy để dấn bước trên nẻo đường cô đơn mà Cái Đẹp chỉ là ảo ảnh phía trước: “Biết chân trời mãi còn xa, Vẫn đành rét buốt, đường nhoà, bơ vơ”. Nhưng có ai trong chúng ta không mong muốn trở về? Dẫu trong bất cứ cảnh đời hiện tại nào chăng nữa ước nguyện trở về vẫn là niềm khao khát và đồng thời là ý thức bất lực của kiếp người: Trở về với một thiên đường tuổi thơ hay trở về với một cõi tháng năm chỉ còn đẹp trong tiếc nhớ. Chính vì vậy mà đôi khi ta yêu chính tâm hồn ta, yêu chính tình yêu của ta hơn là yêu người ta yêu. Trần Xuân An đã nói hộ ta điều ấy. Và có lẽ nhờ vậy mà ta tìm thấy hồn ta trong thơ anh: “Thoáng nghe rơi giữa hư vô, Tiếng kêu thảng thốt vật vờ một tôi, Hồn cam chịu kiếp mồ côi – Yêu tình yêu hơn cả người mình yêu!”. Đó là mộng tưởng, mà đó cũng là cuộc đời: “Khuya buồn, chưa tuổi tàn xiêu, Ngẩn ngơ, mộng tưởng tiêu điều, thương ai”. Khi bâng khuâng tự hỏi thương ai thì cũng có nghĩa là còn phải tự thương mình. Và khi Trần Xuân An ý thức được những điều đó, ta hiểu rằng anh đã phải trả giá cho sự khám phá của mình bằng chính những cơn đau tột cùng của đời anh. Hay nói khác đi, ở đây không còn chỉ là ý niệm tự thức. Ta, hay tha nhân, không quan trọng. Chính xác, đó là Con Người, thế giới nội tâm sâu thẳm của con người, sự thấm thía nỗi đau và niềm vui của một kiếp người. Và thơ như một sự đồng cảm: “Thương ai thơ biết mỉm cười, Lắm khi trào nước mắt đời cùng ai”.

Nhưng đừng tưởng vì vậy mà Trần Xuân An đã thực sự tìm thấy hạnh phúc giữa cuộc đời. Anh vẫn ở trên đường. Đó là con đường tâm thức. Con đường gập ghềnh đau đớn và bí ẩn. Và anh vẫn luôn mơ ước một nẻo về, dẫu lắm khi phải tự hỏi: “Tôi về chẳng hiểu về đâu, Chiều ngơ ngác chiều buông mau chiều rồi”. Đừng tưởng rằng nếu tìm thấy nẻo về thì có thể thôi âu lo, đau khổ. Thơ Trần Xuân An vẫn luôn dịu dàng những nỗi đau tâm cảm. Tiếng thơ ấy như kêu đòi một sự chia sẻ, nhưng đồng thời lại đề nghị một giải thoát. Đó là một thế giới khép và mở. Đó cũng là sự tinh tế và bản sắc quyến rũ của thơ Trần Xuân An. Cho nên, có thể nói rằng, chính bằng nỗi khắc khoải và niềm đau của mình, thơ Trần Xuân An đã mang lại cho chúng ta sự an ủi dịu dàng của Cái Đẹp.

Cuối cùng, phải chăng như một bù trừ, chính vì Trần Xuân An không tìm thấy hạnh phúc, hay nói đúng hơn, không tìm thấy sự thanh bình giữa cuộc đời, mà với thơ, anh đã tìm được sự giải thoát khỏi nỗi khổ đau. Nghĩ cho cùng, đó cũng là một hạnh phúc: Hạnh phúc của người sáng tạo đã tìm thấy chiều sâu của lòng mình, chiều sâu của thơ mình.

Tôi muốn cùng Trần Xuân An tiếp tục ở trên đường…

TP. HCM., tháng 6. 1993
TẦN HOÀI DẠ VŨ


Cước chú của bài "Sự an ủi dịu dàng của cái đẹp" (lời tựa của Tần Hoài Dạ Vũ):

(*) Tôi nhấn mạnh (bold ital). TXA.

(**) Từ 1983 đến 1985; âm hưởng đến 1991.

(***) Đó là sự phản ánh của quy luật tự nhiên, hiện thực xã hội, và quy luật, hiện thực đó đã kết tinh thành biểu tượng, như trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn. Ở ý nghĩa triết học, phải chăng nhân vật Người điên ấy bị ám ảnh về tội sát sanh tàn bạo có tính quy luật của thế giới sinh vật muôn loài, đến mức cho rằng địa chủ, kẻ cho vay nặng lãi, thầy thuốc cùng ông nội, bà con ruột thịt, láng giềng, làng xóm và cả xã hội loài người đều nhăm nhe ăn thịt anh ta? Anh ta sợ hãi, kinh hoàng, khủng khiếp trước sự thể “người ăn thịt người” đó. Trong tập thơ này, tác giả (Trần Xuân An) đã vận dụng thủ pháp nhập thân để thể hiện ám ảnh hãi hùng, rùng rợn của một Người điên khác, về quy luật “người cưỡng hiếp người”.

Cùng với việc giải mã (một cách khám phá sáng tạo) hình tượng tác phẩm trên của Lỗ Tấn, tôi (TXA.) đã bổ sung thêm một trong hai tiên đề quan trọng của vô thần luận (phủ nhận Thượng đế [hay còn gọi là Đức Chúa Trời], mặc dù vẫn hi vọng có sự tồn tại của cái ngã siêu linh [hay linh hồn] ở mỗi con người – sinh vật cấp cao).

Nói rõ ra, sát sanh (“người ăn thịt người”) và loạn luân (“người cưỡng hiếp người”) là hai quy luật tồn tại của sinh vật (nhất là ở loài người nguyên thuỷ, ở sinh vật cấp thấp từ nguyên thuỷ đến nay: chó, mèo, gà, vịt…). Do đó, không thể có một Thượng đế (Đức Chúa Trời) sinh thành ra vũ trụ với muôn loài như vậy.

Chính loài người sẽ ngày mỗi tiến bộ, cải tạo được cả quy luật tất yếu của thế giới tự nhiên (sát sanh, loạn luân [mà kết quả của sự tiến bộ về ý thức đạo đức văn minh là đã trở thành sự tố cáo kinh hoàng: “người ăn thịt người”, “người cưỡng hiếp người”]…). Thế giới tự nhiên bao gồm tất cả các chủng loại sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao, trong đó có loài người; nhưng cho đến nay, chỉ loài người mới đạt được trình độ đạo đức văn minh đó. Chính sự phấn đấu cho mục đích văn minh ấy đã làm cho lịch sử loài người có ý nghĩa sâu sắc. Sống và lao động một cách rất có ý nghĩa nhân văn như thế, đâu phải là một tiến trình phi lí!

Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản 2003; và phụ lục (trích Từ điển văn học) ở cuối tập thơ này.

(TXA. chú thích ngày 07 & 26. 03. 2005).

Đã đưa lên website Trần Xuân An:

http://c.1asphost.com/TrXuanAn/
an/toi_votduong.htm




TỪ CÕI NHỚ EM VỀ

bơ vơ xiêu lạc miền xưa
nắng mưa trầm tưởng mấy mùa đầy vơi
mặc cho dòng thơ nhẹ trôi
lại trôi về phía chân trời yêu thương

mọc lên cuối vạn nẻo đường
vầng trăng xưa cổ nét buồn sáng tươi
bao năm vẫn một nụ cười
môi em nồng ấm xa vời nhìn trăng

lại về cùng tôi đó chăng
áo bay thuở nó nghiêm trang dáng hiền
cơ hồ tâm rất bình yên
trải lòng ra giữa vô biên, em về!

1992



ĐỨC TRỌNG VÀ “QUÁN BÊN ĐƯỜNG” (*)

Tặng bức tranh "Nạn nhân của sadisme [văn sử triết...]"
treo trong nhà ở Diên Sanh



trường cũ ta về như rơi hẫng
trong đám cỏ khô đang mùa khô
bạn bè năm ấy rất đồng cốt
gặp nhau ngờ ngợ còn đồng cô

cùng đau xé ruột cười ha hả
ai hớp hồn rồi lũ rối ơi!
xác như lắp ráp đời chắp vá
lơ láo phân thân giữa rối bời

ta biết tận lòng nhau máu ứa
thương nhau muốn khóc vẫn sợ nhau
đắng lưỡi đôi đằng lời đôi nẻo
riêng biệt đời riêng còn ngấm đau

dẫu thông Đức Trọng ngút sĩ khí
sân trường đành đắp mộ Đạm Tiên
gió lốc xoáy cuồng trong cuồng tưởng
nỗi bệnh thắp bùng Nhật kí điên… (**)

đèo nhau quanh quẩn đầu suýt quẫn
mừng trò bác sĩ tâm rất thiền
mừng thầy còn sống còn cười được
thoát nghiệp đời giữa phố tu tiên!

vẫn thích rượu: ngồi nhìn bạn uống
nỗi đau xưa đã ấm trong tim
lắng xuống đời nhau niềm trầm uất
thơ thấu lòng nhau sao lặng im!

thôi nhé, đêm hoang sơ thị trấn
ta về quán trọ, bạn yên thân
chúc từng tổ ấm là lô cốt
giữ chút chất người. Đừng cười khan.

Đức Trọng, 29. 12. 1992 – Sài Gòn, 1993.

Cước chú của bài “Đức Trọng và “Quán bên đường””:
(*) Nhạc Phạm Duy, thơ khuyết danh (Trang Thế Hy [?]). Trong đó, có một số câu thật nhức nhối: “… Rồi em hỏi anh làm chi? / Cầm bút để viết ngày đêm / Viết gì? / Đời thối phải nói là thơm / Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm / […] Em hỏi nghệ thuật là chi? / Là câm là điếc là đui mà đi…”.
(**) “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn. Xin xem: Trần Xuân An, “Mùa hè bên sông”, tiểu thuyết, bản 2003; tập thơ “Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên”, Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 9-2005:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/905_index.htm





NGÕ RÊU

bước chân về lối cũ
rêu xanh trên thành chiều
vệt nắng tà dần úa
hắt hiu buồn tàn xiêu

tôi bây giờ xa lạ
mỗi tôi nhìn ra tôi
chợt tím hoa me đất
từ vết thương nguôi rồi

chia tan từ độ ấy
em trôi giạt phương nào
cố quên lòng vách cổ
màu gạch không hư hao

tìm chi nơi cõi hẹn
bóng tối đang khoả nhoà
ánh tím hoa me đất
hoá vì sao quá xa!

1992



ĐÂU ĐÓ GIỮA VÔ BIÊN

I. TIẾNG GIÓ

đôi khi hồn bỏ thân tôi
ra đồng xuống phố lên đồi vào mây
hiện về trang giấy run tay
gió trời vạn tuổi cuốn bay, sương mờ.

II. TIẾNG CHIỀU

mang mang sóng nước xao nghiêng
bên kia ngan ngát một triền nắng hanh
nghe trong sương khói buông nhanh
vạc kêu miền nhớ thắp xanh vòm trời.

II. TIẾNG MÙA

ngã mình ngủ dưới cội cây
tàn phai hoa lá phủ đầy thân tôi
chợt bừng thức giấc giữa đồi
ngước lên sao biếc vạn chồi xanh non.

II. TIẾNG LÁ

nghe xa vọng tự tháng năm
gió sông hun hút rét căm biển trời
mong manh kiếp lá, vèo rơi
vẫn trông lồng lộng cõi người xanh reo.

1993



ĐỌC LẠI “ĐẠO ĐỨC KINH” ,
THẤM BUỒN

đến trần ai làn sương không tuổi
rất già nua và quá trẻ thơ
tên ông huyền ẩn như nguồn Đạo
tạc Hư Vô dáng Mẹ bao giờ

tôi muốn khóc theo từng âm cổ
buốt khói mây ấm giọt lệ người
bên sông máu núi xương đụn sách
phác lời kinh thật đến khơi vơi

ông nhập thế lại bằng xuất thế
ước nơi nơi dòng Đạo khoả đều
lặng lẽ, cỡi trâu chiều huyền thoại
gượng lập ngôn với mộng tiêu diêu

giữ thanh đạm một niềm hiền triết
khinh kỉ cương trí tuệ, giễu mình
gương sáng láng cơ hồ mông muội
tất yếu tự nhiên, vút tâm linh!

đời mãi chảy thực hư, hư thực
thực trong hư, va đập, nở sinh
ông thấu suốt ngồi im dõi ngắm
chí vô vi ngỡ rất vô tình

ôi Huyền Đồng Huyền Đồng là Đạo
hỡi câu kinh trầm tĩnh không ngờ…
dẫu hư không vẫn không vô dụng
khoảng trống nào giữa những dòng thơ

ơi “bản tánh nguyên sơ” thơm ngát
tôi thấy tôi đầu nẻo vô thường
ơi đứa bé hai tay nắm chặt
đang nằm nghe lòng Mẹ yêu thương

cũng suýt ngỡ mình thành bướm trắng…
đậu sừng trâu chiêm ngưỡng trích tiên
nhưng sợ hãi lách lau hiu hắt…
nửa hồn này cứ chớm an nhiên

niệm về ông khúc ca tịnh khẩu
ôi phố phường vui biết bao nhiêu!
khi lếch thếch, ờ, khi ngất ngưỡng
tập cười xoà cho bớt đăm chiêu.

1993



HÌNH NHƯ
CÓ MỘT SỚM MAI TUỔI THƠ

gió thơm cây mây nhẹ trời
sớm khai trường nắng tinh khôi rất là

tay con như níu tay ba
phố nhà trong mắt, sáng và trong veo

tuổi thơ ba cũng bước theo
đâu sân trường nhỏ khó nghèo quê xưa.

1991



TẠ LỖI MỘT NGƯỜI

chừng như rơi thoảng mơ hồ
tiếng gì xa vắng gió mờ lạnh căm
vọng về một thuở xa xăm
loé hồng đốm thuốc trầm ngâm bóng người
vọng về năm tháng xa vời
rưng rưng mắt nhớ môi cười xa xôi

bâng khuâng thầm trách, muộn rồi
nắng mưa độ ấy chơi vơi ngợp hồn
tóc em ngát ánh trăng non
tôi còn nông nổi, cúi hôn – khóc oà
biết chân trời mãi còn xa
vẫn đành rét buốt, đường nhoà, bơ vơ

thoáng nghe rơi giữa hư vô
tiếng kêu thảng thốt vật vờ một tôi
hồn cam chịu kiếp mồ côi –
yêu tình yêu hơn cả người mình yêu?!
khuya buồn, chưa tuổi tàn xiêu…
ngẩn ngơ, mộng tưởng tiêu điều, thương ai…

1992



TÔI VẪN YÊU
TRÁI ĐẤT NÀY

trên đầu là bao la
dưới chân nghe bát ngát
thân tôi muôn bụi cát
vạn hừng đông trăng tà
hồn thiêng hoài khẽ hát
tự cội nguồn mờ xa!

cúi đầu ơn mẹ cha
nhắm mắt niệm quê nhà
ôi chấm xanh – quả đất
rưng rưng cùng thiên hà
có có và mất mất
thoáng đọng và tan ra

hư vô sao chất ngất
nhưng nỡ nào im bặt
còn nợ triệu năm qua!
chắp tay vọng chim ca
quỳ lạy từng đoá hoa
hết mình rồi vữa nát.

1993



TRANG THỨ NHẤT

hãy viết lên tâm hồn anh những điều em nghĩ
chữ là hạt mầm
sẽ nẩy xanh trên đất ấy mùa xanh
giọt mực em loang khắp mặt hồ mùa hạ
hương sen phả ngát thơ anh
cùng ngọn gió dịu dàng

chữ và hương
chất đầy trong từng ô vở nhỏ
cuốn sổ yêu thương
mở tung đôi cánh cửa
cho lòng thêm mênh mang

thơ yêu người yêu trời xanh
là hương lúa hương sen thơm vào nhật kí
em gieo lên tâm hồn anh…

1977



HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC,
KHI UỐNG TRÀ Ở CHÙA

vùi cỏ gốc chè biếc
ngẫm thương cây lá hiền
nâng tách, vàng sánh đượm
nguyện đền ơn thiên nhiên

lẽ đời sao trầm thống
ngàn sau còn đảo điên
chén trà như bể khổ
sen cúi trong ngực thiền.

1993



TẠ ƠN

từ vành nôi đến mồ chôn
ngửa và sấp – kiếp đã tròn – thoáng thôi

lún sâu tận đất đen rồi
có khi kết mật cành đời, xanh non

thấm thía cõi ta bà hơn
vẫn ơn cha mẹ cho con làm người.

1991



GIỮA VÔ CÙNG

xanh lên xanh với đất xanh
cơn mưa ngọn nắng kết thành thân tôi
thương ai thơ biết mỉm cười
lắm khi tào nước mắt đời cùng ai
mưa từ thiên cổ không phai
long lanh dòng nắng trôi hoài, ngàn xưa
quê Cha bão hạn vạn mùa
xanh từ lòng Mẹ xanh chờ tóc em
tôi nhìn tôi đứng bên thềm
vô cùng chạm trái tim mềm, khẽ ngân…

1993



MÙA VÀNG MIỀN CAO

nắng mùa khô đến rồi
trời xanh Ma-đa-gui
gió buổi chiều núi đồi
ngân nga trong mùa vui

mùa khô trên vùng cao
đồi vàng hươm sắc lúa
ai kia, trong chiều về
gùi vàng, chiều vàng hoe
nhớ cánh đồng tháng hạ
lòng sôi lên mùa ve

đây mùa mưa, tháng tư
lưỡi cuốc vung ngoài rẫy
tháng mười, đang mùa khô
trưa vàng, chiều rét ngọt
thóc vàng, lâng hương mơ
chờ mùa ngô mẩy bắp

một vùng đồi ấm áp
một vùng trời mưa bay
ơi đất nước rộng dài
bao nhiêu tháng mười hai?

cứ mong ai ngoài ấy
trong chiều Ma-đa-gui
giọng Huế nào ngọt vậy
giữa mênh mông núi đồi
nhớ mưa làng, phố cũ
nên nắng vàng chờ ai

quê hương là đất ở
là giọng nói không phai
nỗi nhớ quê lạ quá
hoá nỗi chờ mong ai

đất đỏ, vàng nắng gió
ngày xanh năm tháng dài
muốn về thăm ngoài đó
mùa vỡ đất đến rồi
ai vào cho đỡ nhớ
cùng gieo hạt ngày mai.

1979



VỚI TRUYỀN THUYẾT
VỀ KHÁT VỌNG CỨU RỖI

“Người đã bị người-ta khinh-dễ và chán-bỏ, từng trải sự buồn-bực, biết sự đau-ốm, bị khinh như kẻ mà người-ta che mặt chẳng thèm xem; chúng-ta cũng chẳng coi Người ra gì. Chính Ngài đã lấy tật-nguyền của chúng-ta, và gánh lấy bệnh-hoạn của chúng-ta”.
(ÊSAI 53: 2-4 / MATHIƠ 8:17)


nhịp trái tim mãi ban sơ
giáo đường nhạc vút xanh lơ sớm chiều
trầm tư, lắng tuổi xế xiêu
ngấm trong sầu khổ đã nhiều phúc âm

ngát thơm nguồn sáng từ tâm
hồn em cúi xuống, vọng thầm sóng mơ
vai oằn thập giá bao giờ
tôi tìm Đức Mẹ đọc thơ tình người

em là ngọn nến trong tôi
xua đi bóng tối truyền lời yêu thương
máu cứu rỗi sáng con đường
ánh vàng Núi Sọ rung chuông chói loà

xin nhân danh Đất Trời và
nỗi Khổ Đau và Thăng Hoa giữa Đời
nhà người thợ rất thánh ơi
mồ hôi nước mắt muôn thời hương bay

cõi trần gian còn đắng cay
vẫn còn khát vọng như ngày xa xưa
nắng ngời tiếng hát bốn mùa
hai ngàn năm nếu chẳng mưa máu Đời! (*)

1992


Cước chú của bàI “Với truyền thuyết về khát vọng cứu rỗi”:
(*) Nguyên văn trong bản in năm 1992 là:
“hai ngàn năm dịu gió mưa
nắng ngời tiếng hát bốn mùa cho nhau”.
Ở bản chép lại trên máy vi tính lần này (08. 03. 2005), tôi xin sửa lại như trên
.



TIN QUÊ

lá cuối thu xanh ngắt
đông phương nam óng vàng
quặn chút lòng chưa lạc
tổ tiên nơi ruột gan…

mưa lũ đã khoả tràn
sóng duềnh con nước bạc
miền gió lửa, hạn, cát
bão dìm trong tan hoang!

quê nhà ơi quê nhà
dù vòng tay bền chắc
cái lo nhìn rất xa
qua trùng trùng buốt rát…

dù đất đai quê nhà
mùa lại thơm thiết tha
sương bâng khuâng tím ngát
rưng rưng hồng phù sa…

sách tuổi thơ nhoè nát
giạt trong em, bàng hoàng
chơi vơi… Mẹ thương làng
chiều trắng dâng nhoè mắt.

1992



NÀY LÀ MÌNH VÀ MÁU
NHÀ THƠ

kính tặng Abraham Lincoln,
người khai sinh cho “Lá cỏ” của Whitman.


năm nhà thơ nước mình ngã xuống mỉm cười
mắt nhoà kiếm xưa đoá mai không nát (*)
“Lá cỏ” mọc lên. Gót giày giẫm lên tiếng hát!

Đông thanh thoát và Tây sống thật

niềm tin vào Con Người khát vọng làm người
thiêng liêng hơn ngàn thiêng liêng khác

bút vạch bất công ngang ngược trải phơi
tượng đài da đen đục thơ chạm khắc

Đường luật cúi đầu trước môi hôn xứ lạ say đời
Thánh kinh nhũ hương cho thân xác
linh hồn lấp lánh mồ hôi

ngạo nghễ thách thức tầm sống của thời
này và kia, trái đất
vẫn một biển đôi bờ bát ngát
đẹp thảm biếc toả ngời đẹp suối máu hồng trôi.

1993


Cước chú của bà “Này là mình và máu nhà thơ”:
(*) Tác giả (TXA.) xin có một cái nhìn tỉnh táo hơn về Cao Bá Quát: Ông là một nhà thơ thiên tài, nổi loạn với ngọn cờ “phù Lê” (1854 – 1855) đã bị lịch sử vượt qua, trở nên phản động. Cuộc nổi loạn “phù Lê” của Cao Bá Quát thực chất chỉ là sự phản ứng chống đối của kẻ sĩ Đàng Ngoài không chịu thần phục nhà Nguyễn Đàng Trong, cộng với sự ảnh hưởng do phong trào “bài Thanh phục Minh” – Thái Bình thiên quốc – bên Trung Hoa. Cao Bá Quát đã làm rối nhiễu thêm tình hình Đất nước trong khi thực dân Pháp và “tả đạo” đang chuẩn bị xâm lược nước ta.
(Chú thích ngày 08. 03. 2005)




GIÁ NHƯ

vẫn con đường lầy đất đỏ
những đôi chân lấm tới trường
mưa rơi âm thầm bụi nhỏ
vai nghiêng gió lạnh đến thương!

vẫn màu vôi loang trên tường
lưng trâu cà lên dấu mực
bàn ghế vẹo xiêu gãy mục
chữ thầy trên bảng nhạt nhoà

vẫn là tuổi thơ của ba
khi con mai kia đi học?
không, không, ba đâu có khóc
mưa rơi vào mắt xót xa…

1990



SAU MƯỜI NĂM,
CHIỀU ĐÀ LẠT

mười năm thương nhớ gọi về
mặc bao rối nhiễu tôi nghe tim mình
có gì đâu một chút tình
vùi sâu rét mướt tâm linh, cháy bùng

tôi về sương nắng mông lung
mùa anh đào nở lặng mừng trong tôi
bên hồ đăm đắm bồi hồi
gần nhà em lại xa xôi, ngại ngần

mười năm tưởng niệm, bâng khuâng
tình yêu ơi, đã rất gần, càng xa
trăng B’Lao hoài bao la
hình Đà Lạt nào nhạt nhoà, hoa lay…

tôi về tìm lại gì đây
sương và nắng, nắng sương bay, trắng hồ
ngôi nhà bé bỏng đơn sơ
em còn ở đó hay giờ nơi đâu

mười năm gió giạt nát nhàu
hồn tôi nhàu nát bợt màu buồn tênh
bao lần bóng ngã chênh vênh
mất mình, sông. biển. thác. ghềnh, mất nhau

tôi về chẳng hiểu về đâu
chiều ngơ ngác chiều buông mau chiều rồi
bên hồ tê buốt riêng tôi
phía nhà em nắng lưng đồi gần, xa…

Đà Lạt, 27. 12. 1992
Sài Gòn, tháng Giêng 1993



HÁT TRƯỚC MẶT TRỜI BÁCH VIỆT

“trước giặc thù vẫn điềm nhiên
uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng”
TXA.


hình như khát vọng cùng tôi
nở ra từ trứng Hồng thời hoang sơ
một đàn chim Lạc hát thơ
giấc mê chợt tỉnh vắng trơ trống đồng…

bia văn võ, bướm phiêu bồng
đình làng nhã nhạc, thu không chuông chùa (*)
hồn ve lột xác mấy mùa
sân trường nắng đỏ gió lùa cỏ cây

xưa sau phảng phất đâu đây
đêm đêm hương thắp khói bay xa mờ
tôi tìm tôi tận hư vô
tiếng trầm nghiêm tự đáy mồ cha ông…(**)

mong từ mái đẩy chiêng cồng
dệt kinh điển Việt lắng trong điệu hồn
tuyệt với hào khí nước non
Rồng qua xâu xé vẫn còn rất Tiên

rợp bay chim Lạc ba miền
Diên Hồng tận đất nguồn thiêng mạch đời
đổi trao tinh tuý muôn nơi
trống đồng toả sáng mặt trời ý dân

tôi cười tôi bay bâng lâng
chỉ cành hoa sao kéo gần tương lai?
mộng mơ thôi đã bạc phai
nhìn Rồng thúc trống bùng hoài lửa Tiên.


Cước chú của bài “Hát trước mặt trời Bách Việt”:
(*) Nguyên văn, 1993: nhà thờ [họ tộc] nhã nhạc, thu không chuông chùa.
(**) Nguyên văn, 1993: tiếng cha ông tự đáy mồ trầm vang …




BÀI THƠ CÓ TÊN LÀ “BÉ”

bé tên Bài Thơ
tâm hồn cha mẹ

ơi khúc sông sâu
ơi khúc ca dao
vô ngần đẹp đẽ
mạch núi phải đâu
mênh mang như thế
hương đồng gió bể
cuốn bớt bồi vào
mới thành ca dao
mới thành sông sâu
trong vắt ngọt ngào

tứ thơ ban đầu
mai sau ra sao
biếc đổi xanh trao
với đời, con nhé

tấm lòng cha mẹ
chắt cạn khô khao
mong bài thơ “Bé”
như khúc ca dao
như khúc sông sâu…

1988



KÍNH TẶNG MẠNH TỬ

nhân dân là thượng đế hay hoàng đế
trước bàn cờ vua cờ tướng – cõi đời
khát vọng ngàn năm đông tây nam bắc
với cuộc chơi nhưng không phải cuộc chơi!

1993



KA ĐUM

suối ầm ào trầm bổng giữa rừng trăng
tiếng trống tiếng cồng tưng bừng bên ngọn lửa
câu hát nồng nàn hương lúa
ché rượu nghiêng cả trời đất ngấm vào người

Ka Đum! Ka Đum! ngọn lửa mùa vui
lửa mãnh liệt, lửa cháy bùng dưới vầng trăng
rực đỏ
lửa, lửa hồn nhiên như tiếng reo,
lửa kiên tâm như ngọn lúa
lửa tỏa cao, từ trang sách sáng mặt người

đôi tay pạp (*) mở lòng ra, vỗ nhịp liên hồi
thác rơi trên mặt trống nghìn năm âm hưởng mới
lồng ngực căng, rung
như cánh rừng bão nổi
cơn bão chói hồng, dậy từng đêm thao thức
băn khoăn

Ka Đum! Ka Đum! cồng ngân sâu,
hương lúa ngút hơi trăng
tan trong câu hát ngày mùa,
trái tim này nghiêng vào lòng nọ
con mắt quay đi, con mắt nhìn chăm Ka Đum
như câu đố khó
đã ngời lên, lóng lánh giọt rượu vui

ơ buôn làng ơi! rừng già ta qua,
trơ lại rừng chồi
một sá (**) lúa trăm cây cao rạp xuống!
chạy quanh quẩn nghìn đời giữa núi cao rừng thẳm
nay địu con đi dựng lán xây trường,
mỗi ngọn rau hạt thóc ngát bình yên

Ka Đum! Ka Đum! trăng tháng mười
hồng rực Tây Nguyên
bao ngọn lửa chừng như huyền hoặc:
tiếng trống chạm vòm sao,
lịch sử vượt nghin năm tít tắp
giọng hát suối rừng: bao nhiêu cô gái Ka Đum!

1981


Cước chú của bài “Ka Đum”:
(*) Pạp (tiếng K’Hor): cha.
(**) Sá (tiếng K’Hor): loại gùi cao đeo sau lưng.




ĐẠO NỘI –
CÁI ĐẸP VÀ TRẺ THƠ

hoài niệm Tiên Dung và Chử Đồng Tử

cởi hết rồi tạm bợ
cát trôi, bãi Tự Nhiên
cao sang và cùng khổ
trong tâm nhìn, tiên thiên.

1993



ĐÀ LẠT VÀ EM

chẳng lẽ tôi trở về
chỉ với sương cỏ biếc
đồi thông dù thao thiết…
gặp mình là hư không…

xa hút thời ngóng trông
B’Lao sao thắp tím
đêm lạnh se ngọt lịm
hương hoa chè tóc thơm

còn đây nỗi tủi hờn
xé lòng nhau buốt bỏng
bến xe trưa Đức Trọng
gió xoáy ù cuồng mê

chẳng lẽ tôi trở về
như chìm vào niềm nhớ
lối quen ngôi nhà nhỏ
hiện dần trong mơ thôi?

tôi về, yêu dấu ơi
cũng chỉ thêm buồn khổ
mắt đen tròn, bỡ ngỡ…
từ vực chết tôi về…

dẫu còn xanh tóc thề
em bồng con thờ thẫn
tôi như người ngớ ngẩn
tìm thăm nhau làm chi!

đã qua rồi qua đi
chẳng bao giờ trở lại
tôi biết mình điên dại
quán khuya Đà Lạt buồn

chắt chiu niềm nhớ thương
qua quá nhiều cay đắng
dốc chơi vơi, bão trắng
tôi có còn tôi không.

Đà Lạt, 26 – 27. XII. 1992
Sài Gòn, 1993



THĂNG HOA
SINH THỰC KHÍ (*)

trầm hương sương ngát miếu đền
phiếm thần khẽ cúi hôn lên đoá hồng
ngàn xưa đèn toả nhớ mong
hoà xương thịt tình yêu trong đất trời.

1984 – 1993


Cước chú của bài “Thăng hoa sinh thực khí”:
(*) Prianisme, với những hình tượng cách điệu, thẩm mĩ và với cái nhìn hồn nhiên tề vật cổ sơ: biểu tượng của hai nguyên khí âm dương.




TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG THƠ

không phải khởi đầu năm mười chín tuổi
nhưng thương quá câu thơ cháy nồng thơ dại ấy…

cảm ơn cảm ơn vì sao dẫn tôi đi suốt tháng năm dài
gập ghềnh đường thơ
đi từ ước mơ đến cùng… mơ ước!
nén tận thẳm sâu bao đêm thao thức
để bây giờ còn giữ chút non tươi

chưa đến tuổi ba mươi
may thấm hiểu màu xanh của lá
và chấm nắng trong ngần mắt trẻ
mong thơ tôi
chỉ là tre là gỗ
cho bầu bí xanh tràn nối lại những góc sân

tôi vẫn ở trên đường
vẫn dặn lòng cứ đi là đến
dẫu mười năm sau, lần nữa, ngoảnh về

cơ chi hồn còn mãi những ngô nghê!
ôi, "kẻ tuẫn đạo" (*)
đã hoang tưởng quay cuồng bụi đỏ!

cơ chi hồn mãi hoài bỡ ngỡ
sau mỗi chặng đường
ngoảnh lại
cười, với nụ cười buồn
bước tiếp!

chưa đến tuổi ba mươi
bàng hoàng trước muôn đời lá biếc
và chấm nắng xưa sau trong mắt trẻ non tươi
tôi mãi ở trên đường. Lặng lẽ nụ cười.

1982

(*)Tên tác phẩm của Unamuno. Xin xem thêm tiểu thuyết "Mùa hè bên sông" của TXA., Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 5-2005



THOÁNG THIÊN THU

tơ trời nghiêng nghiêng gió
chiều nghiêng nghiêng lá vàng
khẽ choáng hồn thu cổ
bên em qua đò ngang

bao năm nghe thu sang
niềm muôn trùng thuở nọ
đêm biếc nghiêng nghiêng nhớ
nghiêng nghiêng trăng hồng hoang

tim nghiêng nghiêng chín đỏ
tay nghiêng nghiêng tiếng đàn
hình như tôi ngồi đó
ngàn mùa thu phủ tràn!

1992



ÁM THỊ
“HOANG TƯỞNG BỊ BỨC HIẾP”

viết tặng “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn (*)

bao nhiêu lần muốn thoát ra
cho lòng thoáng nắng gió và mây bay
lại xanh sông nước cỏ cây
đàn chim nó hót với bầy trẻ thơ

nỗi đau rợn lạnh giấc mơ
dù ám thị, đến bây giờ còn đau
tự mình cắt rốn chôn nhau
từ nay sống với kiếp sau, giữa đời
kiếp xưa đã đắp mộ rồi
giờ ôm tiếng hát chào đời, đời ơi
đất hứa cũng là đây thôi
đời đang thoát, tôi thoát tôi ngày nào

hát cho trời chẳng còn cao (**)
đất không còn thấp trăng sao bên người
hát cho số phận mỉm cười
ảo thanh cú rúc trong tôi xa lìa.

1982 – 1991


Cước chú của bài “Ám thị “hoang tường bị bức hiếp"" (vốn có nhan đề là “Ám thị “hoang tường bị cưỡng hiếp và bị bôi nhọ””):
(*) Xin xem chú thích của TXA. ở lời giới thiệu đầu tập thơ và phần phụ lục (trích “Từ điển văn học”) cuối tập thơ.
(**) Chữ Trời có thể viết hoa: Trời cao (Thượng đế, Chúa Trời).


Ghi chú: Nhan đề "Ám thị “hoang tường bị cưỡng hiếp và bị bôi nhọ”" cần được ghi thêm cho rõ ý: (Nạn nhân của sadisme văn sử triết).

Bài thơ này còn có nhan đề là "Hoang tưởng bị bức hiếp" (trong cuốn "Những gương mặt thơ mới", tập 1, Nxb. Thanh Niên, 1994)




ÁO ĐỎ

tặng Phú

gió xám mờ buốt lạnh
bay bay bỗng rực hồng
chiếc áo mưa màu đỏ
sáng ngõ buồn chiều đông

và em sà vào lòng
áo trở thành ngọn lửa
toả ấm từ góc phòng
ngây thơ ngơ ngẩn ngó…

1990



B’LAO, MỘT THOÁNG TIẾNG HÁT

chóp núi hừng đông tràn nắng sớm
gió mùa ngân nga trên nương rẫy vàng
Ka Rem hát cho mình đứng ngó
tiếng lồ ô – bè trầm –
truyền theo dây mây âm vang…

1979



GẶP EM VÀ “NAM HOA KINH”

em đang mây nhưng đâu phải mây trôi
khi mãi nhớ thuở nào trong biếc nước
thân bay bổng thân tuôn xanh róc rách
vẫn đẹp như mưa toả ngát bốn phương trời

làn mây tiêu dao đâu còn khắc khoải chơi vơi
với bao ảo tượng vàng ròng hay bùn đất!
em đích thực em, bay trọn tầm bay thanh thoát nhất
dù không thể thành tiên và còn ngọn gió của đời.

1993



HÌNH DUNG
KHI ĐỊNH LẬP NGHIỆP Ở SÀI GÒN

lời quê kính tặng Mạ

Mạ đã già rồi Mạ ơi
một đời quê kiểng, nay rời xa quê!
phố phường ào ạt người xe
đi dọc vỉa hè cũng níu tay con

vì con, xưa sống neo đơn
giờ lo cho cháu Mạ thương Mạ vào

xa quê nhớ cả gió lào
ngốt bụi đỏ với bão gào mưa ru
gặp ai, Mạ chỉ ậm ừ
giọng làng trĩu nặng, trầm như điệu hò

ngồi nhà, nhớ đến bơ thờ
bao năm quên phố, ngẩn ngơ lạc loài
đang đi, giấu tiếng thở dài
nhìn con nhìn cháu mũi cay môi cười

cháu như bay giữa đường đời
Mạ con mình hoá mây trời bay theo.

1991



MẶC NIỆM

trong tôi có một miền quê
đôi khi buồn quá tôi về trong tôi

bao nhiêu vỡ nát rối bời
thiêng liêng quốc tuý vẫn ngôi đình làng
nến lung linh khói trầm nhang
nghe lòng ấm lại bốn ngàn năm xưa

đất trời buốt bỏng nắng mưa
trái tim thanh lọc nhịp mùa nguyên sơ

chiêng rung trống vọng bóng cờ
trăm con chim lạc giọng hò trăm nơi
mẹ Tiên yêu núi biếc ngời
cùng cha Rồng hát chung lời sóng vang

Đông – Tây
khúc xạ
hoà tan
tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn

mở trương ẩn giữa làng thôn
sớ dâng, kẻ sĩ nhớ ơn người thầy
và ai thấu nỗi đắng cay
giả lười, sách thuốc đọng đầy tình dân (*)

bâng khuâng…
xa khuất, suối ngân
lắng trong heo hút tiếng chân không mòn

quên thù cha vì nước non
vung gươm, truyền hịch, vạn hồn bừng nghe
và ai thắp lửa hội thề
án oan tưới máu … (*)
bia đề, rưng rưng…

thây phơi, đàn nhị nghẹn chùng
vô danh câu hát, mung lung hương đồng

sân đình lặng nhớ cha ông
thuở nào mở đất dắt bồng cháu con
hoang vu chí ngợp vai sờn
ngoảng về cố quận hoàng hôn cháy lòng

nao nao diệu vợi pháo hồng
bồi hồi trăng ngát đèn lồng lễ vui

ngấm bao chát xót ngọt bùi
ngàn xưa reo múa ngậm ngùi ngàn xưa
mương kênh rửa mặn thau chua
ngàn sau điện sáng trĩu mùa ngàn sau

còn đây tóc chỏm khoe màu
áo dài khăn đóng bạc đầu ô đen

vẫn còn đây làm sao quên
ước mơ nẩy lộc đẹp thêm một thời
gốc bàng cổ thụ khô rồi
bây giờ sống lại cho đời, vạn năm

trong tôi, khuya một, đêm rằm
ngát xưa hương toả hướng tâm về nguồn

bao ngôi đình quá thân thương
nơi tôi tìm đến dọc đường xa quê
trái tim gọi thức cơn mê…
hồn thiêng Đất nước lắng nghe chút lòng…

21. IV – 20. V. 1993


Cước chú của bài “Mặc niệm”:
(*) Chu Văn An, Lê Hữu Trác, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, bốn danh nhân dân tộc được nhân dân thờ kính, trải qua nhiều thời đại với nhiều quan điểm, góc độ đánh giá khác nhau. Tất nhiên, cũng cần phải ghi nhận hạn chế của Trần Hưng Đạo và nhà Trần. Về trường hợp Nguyễn Trãi, lúc sinh thời vào những năm cuối đời và khoảng 20 năm sau khi ông bị án tru di tam tộc (1442 – 1464), Nguyễn Trãi còn bị nhiều sự gièm pha, vu khống của bọn gian thần. Ở đây, chỉ để hướng chân tâm, “thực nghiệm tâm linh”, gồm cả việc mài sắc ý thức phê phán mặt hạn chế của danh nhân một cách tỉnh táo.
(Chú thích năm 1993 & bổ sung vào ngày 08. 03. 2005).




HÁT RU GIÙM TRÁI TIM TÔI

em thân yêu, trăng đã xuống ngoài hiên
ru êm giùm tôi nguồn thơ mê sảng

trái tim tôi có một mảnh Khuất Nguyên
đông khô nhiều giọt lệ Người Điên
vẫn nỗi đau Lỗ Tấn!

tia mặt trời chiếu thẳng
cũng thành đêm dài sầu hận?!
bức hiếp cuồng với khát vọng nhân quyền
được làm người ngẩng cao vầng trán

đã “Li tao” đắng
đã “Nhật kí” mặn
đã chiêu hồn mình tìm chút bình yên

quên đi em. Chỉ còn tình thơ thân thương
trầm lắng
xin nhẹ ru tôi giấc trẻ ngoan hiền.

1992



Phụ lục
(bổ sung, 2005):

GS. LƯƠNG DUY THỨ

“NHẬT KÍ NGƯỜI ĐIÊN”
(“Cuồng nhân nhật kí”, 1918),
truyện ngắn đầu tay của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn.

Nhân vật chính là một trí thức mắc bệnh “bức hại cuồng”, luôn luôn nơm nớp lo sợ bị người khác ăn thịt. Thấy con chó nhà địa chủ họ Triệu nhe răng ra sủa, nhìn con mắt lườm lườm của cụ Triệu, ra đường thấy bọn trẻ lánh mặt, nghe người đàn bà nọ mắng con: “Tao có ăn được thịt mày một miếng mới hả giận”, anh ta đều nghĩ họ đang mưu toan ăn thịt mình. Anh cố tìm nguyên nhân và nghĩ đến hành động hai mươi năm về trước mình đã giẫm lên cuốn sổ ghi nợ mấy mươi đời của ông Cổ Cữu (ông Lâu đời) làm ông ta căm giận nên rủ rê cụ Triệu hãm hại mình và bày vẽ cho bọn trẻ con chống lại mình. Anh còn cố nhớ lại những điều đã học trong sử sách và hiểu ra rằng việc ăn thịt người vốn đã thường xuyên xảy ra. Anh liền giở cuốn lịch sử bốn ngàn năm Trung Quốc ra tra cứu và bỗng phát hiện đằng sau các dòng chữ dày đặc những “nhân nghĩa đạo đức” nổi bật lên mấy chữ “ăn thịt người”. Thầy thuốc đến bắt mạch chữa bệnh cho anh, anh lại nghĩ chẳng qua họ sờ xem gầy hay béo để tiện ăn thịt mà thôi. Anh phát hiện mưu kế của họ không muốn ra mặt giết người mà cố bức cho phải tự chết để ăn thịt. Anh hiểu thêm có kẻ lấy ăn thịt người làm lẽ sống, có kẻ do thói quen, có kẻ biết sai nhưng không chịu bước qua ngưỡng cửa giác ngộ mà a tòng. Anh chất vấn một người trẻ tuổi, ăn thịt người là không nên, tại sao vẫn cứ ăn. Rồi anh nghĩ đến việc khuyên can mọi người, bắt đầu từ ông anh, không nên ăn thịt người. Anh bị cự tuyệt, bị nhốt vào phòng và mọi người đua nhau đến xem thằng điên. Trong cơn điên loạn, anh thét bảo mọi người phải thay đổi, từ chân tâm mà thay đổi, vì tương lai không ai dung thứ những kẻ ăn thịt người. Và anh bỗng loé lên niềm hi vọng vào những đứa trẻ chưa từng ăn thịt người, anh vội vã kêu cứu: “Hãy cứu lấy trẻ em!” .
Lỗ Tấn đã khéo thông qua diễn biến tâm lí của một người điên để lên án bản chất ăn thịt người của chế độ gia tộc và lễ giáo phong kiến, gắn với nó là sự bóc lột tô tức và sưu dịch nặng nề. Người điên mang dáng dấp hình tượng một chiến sĩ dân chủ, thức dậy sớm khi mọi người còn mê ngủ, nhìn rõ bản chất ăn thịt người của chế độ cũ, kêu gọi đạp đổ nó và tìm cách cứu lấy mầm non của tương lai. Mặc dù niềm hi vọng thay cũ đổi mới của tác giả còn mang màu sắc tiến hoá luận và hình ảnh người chiến sĩ dân chủ còn đơn độc, sống bằng sức mạnh tinh thần, còn ít nhiều chịu ảnh hưởng học thuyết siêu nhân của Nitsơ (F. Nietzsche [TXA. chua thêm]), nhưng “Nhật kí người điên” đã vang lên như bài hịch tuyên chiến chống phong kiến, đáp ứng nhu cầu giải phóng tư tưởng của thời đại Ngũ tứ (04. V. 1919, 1917 – 1924 [TXA. ct.]). Hình thức mới mẻ, cách điệu độc đáo, tác phẩm đã chinh phục người đọc ngay từ khi mới ra đời.

(Trích: Nhiều tác giả, “Từ điển văn học”, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 111 – 112: mục từ 156, bài viết của GS. Lương Duy Thứ. Hoặc: “Từ điển văn học”, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 1258: cũng bài viết trên).

Đã đưa lên website Trần Xuân An:
http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/
toi_votduong/toi_votduong_p2.htm



Xin xem lại chú thích của Trần Xuân An
ở Lời đề tựa:


Đó là sự phản ánh của quy luật tự nhiên, hiện thực xã hội, và quy luật, hiện thực đó đã kết tinh thành biểu tượng, như trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn.

Ở ý nghĩa triết học, phải chăng nhân vật Người điên ấy bị ám ảnh về tội sát sanh tàn bạo có tính quy luật của thế giới sinh vật muôn loài, đến mức cho rằng địa chủ, kẻ cho vay nặng lãi, thầy thuốc cùng ông nội, bà con ruột thịt, láng giềng, làng xóm và cả xã hội loài người đều nhăm nhe ăn thịt anh ta? Anh ta sợ hãi, kinh hoàng, khủng khiếp trước sự thể “người ăn thịt người” đó. Trong tập thơ này, tác giả (Trần Xuân An) đã vận dụng thủ pháp nhập thân để thể hiện ám ảnh hãi hùng, rùng rợn của một Người điên khác, về quy luật “người cưỡng hiếp người”.

Cùng với việc giải mã (một cách khám phá sáng tạo) hình tượng tác phẩm trên của Lỗ Tấn, tôi (TXA.) đã bổ sung thêm một trong hai tiên đề quan trọng của vô thần luận (phủ nhận Thượng đế [hay còn gọi là Đức Chúa Trời], mặc dù vẫn hi vọng có sự tồn tại của cái ngã siêu linh [hay linh hồn] ở mỗi con người – sinh vật cấp cao).

Nói rõ ra, sát sanh (“người ăn thịt người”) và loạn luân (“người cưỡng hiếp người”) là hai quy luật tồn tại của sinh vật (nhất là ở loài người nguyên thuỷ, ở sinh vật cấp thấp từ nguyên thuỷ đến nay: chó, mèo, gà, vịt…). Do đó, không thể có một Thượng đế (Đức Chúa Trời) sinh thành ra vũ trụ với muôn loài như vậy.

Chính loài người sẽ ngày mỗi tiến bộ, cải tạo được cả quy luật tất yếu của thế giới tự nhiên (sát sanh, loạn luân [mà kết quả của sự tiến bộ về ý thức đạo đức văn minh là đã trở thành sự tố cáo kinh hoàng: “người ăn thịt người”, “người cưỡng hiếp người”]…). Thế giới tự nhiên bao gồm tất cả các chủng loại sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao, trong đó có loài người; nhưng cho đến nay, chỉ loài người mới đạt được trình độ đạo đức văn minh đó. Chính sự phấn đấu cho mục đích văn minh ấy đã làm cho lịch sử loài người có ý nghĩa sâu sắc. Sống và lao động một cách rất có ý nghĩa nhân văn như thế, đâu phải là một tiến trình phi lí!

Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản 2003; và phụ lục (trích Từ điển văn học) ở cuối tập thơ này.

(TXA. chú thích ngày 07 & 26. 03. 2005).




TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG
Thơ
Trần Xuân An

◘ Thơ ngỏ (trích Nắng và mưa)
◘ Sự an ủi dịu dàng của cái đẹp
(lời tựa của Tần Hoài Dạ Vũ)
1. Từ cõi nhớ em về
2. Đức Trọng và “Quán bên đường”
3. Ngõ rêu
4. Đâu đó giữa vô biên (4 bài)
5. Đọc lại ”Đạo Đức Kinh”, thấm buồn
6. Hình như có một sớm mai tuổi thơ – Phụ bản 1: Trẻ thơ
7. Tạ lỗi một người
8. Tôi vẫn yêu trái đất này
9. Trang thứ nhất
10. Hai mươi năm trước, khi uống trà ở chùa
11. Tạ ơn
12. Giữa vô cùng
13. Mùa vàng miền cao
14. Với truyền thuyết về khát vọng cứu rỗi
15. Tin quê
16. Này là mình và máu nhà thơ – Phụ bản 2: Hoài niệm
17. Giá như
18. Sau mười năm, chiều Đà Lạt
19. Hát trước mặt trời Bách Việt
20. Bài thơ có tên là “Bé”
21. Kính tặng Mạnh Tử
22. Ka Đum
23. Đạo Nội – cái đẹp và trẻ thơ
24. Đà Lạt và em
25. Thăng hoa sinh thực khí
26. Tôi vẫn ở trên đường thơ
27. Thoáng thiên thu
28. Ám thị “hoang tưởng bị bức hiếp”
29. Áo đỏ
30. B’Lao, một thoáng tiếng hát
31. Gặp em và ”Nam Hoa kinh” – Phụ bản 3: Mỏi mòn
32. Hình dung khi định lập nghiệp ở Sài Gòn
33. Mặc niệm
34. Hát ru giùm trái tim tôi (thơ bạt)
◘ Phụ lục (GS. Lương Duy Thứ, “Nhật kí người điên”,
trích ”Từ điển văn học)
◘ Mục lục


TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG
Thơ
TRẦN XUÂN AN
Nhà Xuất bản Văn Nghệ TP. HCM.
1993





DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)

Trần Xuân An
sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
dân tộc: Kinh (Việt Nam);
quê gốc: Quảng Trị;
tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Việt, Đại học Sư phạm Huế
(khóa 1974 – 1978);
dạy phổ thông cơ sở và phổ thông trung học ở Lâm Đồng (1978 – 1983);
hiện chuyên sáng tác, nghiên cứu tại TP. HCM.
(hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.)

Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm

Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm

Tặng thưởng, giải thưởng:

1. Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.


TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(bấm vào các đường LINKs CẬP NHẬT sau đây):

I. THƠ : _________________________
________________________________________________

http://tranxuanantthitap1.
blogspot.com/

http://tranxuananthitap2.
blogspot.com/

http://tranxuananthitap3.
blogspot.com/

http://tranxuanantthitap4.
blogspot.com/

http://tranxuananthitap5.
blogspot.com/

http://tranxuananthitap6.
blogspot.com/

http://tranxuanantruongca
tho7.blogspot.com/

http://tranxuananthitap9.
blogspot.com/

http://tranxuanantthitap9.
blogspot.com/


II. TIỂU THUYẾT : _________________
________________________________________________

http://tranxuananngoitruong
thgieng.blogspot.com/

http://tranxuanansendobth
hbinh.blogspot.com/

http://tranxuanancmn
lamaixanh.blogspot.com/

http://tranxuanancmn
lamaix2.blogspot.com/


III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ________
________________________________________________

http://tacphamtranxuanan
giaodiem.blogspot.com/

http://tranxuanantieuluan.
blogspot.com/

http://tranxuanantieuluan
9b.blogspot.com/

http://tranxuananbinhtho.
blogspot.com/


IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ :
____________
________________________________________________

http://tranxuananpcdtnvt1a.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt2a.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt2b.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt3a.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt3b.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt4a.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt4b.
blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt4c.
blogspot.com/


V. TRANG PHỤ _____________
_________________________________________

http://tranxuanan-trphu.
blogspot.com/




HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ TỪ NHỮNG ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.


NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/505_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/605_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/705_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/805_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_III05/905_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_IV05/1005_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_IV05/1105_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_IV05/1205_index.htm


http://www.giaodiem.com/mluc/
mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm



Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An



GHI CHÚ THEO THỦ TỤC:

TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG
VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.



XIN TÌM ĐỌC:

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)

(truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử)
trọn bộ 4 tập (985 tr. 16 x 24 cm)

Tác giả: TRẦN XUÂN AN

Hội đồng Tư vấn, Phản biện & Giám định
thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam giám định.
Tổng Thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
DƯƠNG TRUNG QUỐC
viết lời giới thiệu.

NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM. ấn hành, 12. 2004
http://www.giaodiem.com
tháng 11-2005 …
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm ...

______________

Bổ sung cước chú đúng y nguyên bản: 25-01 (2007) HB7
http://c.1asphost.com/
TrXuanAn/an/toi_votduong.htm

0 Comments:

Post a Comment

<< Home